Nguồn gốc tên gọi của chiếc bánh phu thê
Nhắc tới bánh phu thê, chắc đã không còn xa lạ đối với mỗi người Việt Nam, chiếc bánh vẫn thường xuất hiện trong mỗi dịp lễ tết, cưới hỏi. Bánh phu thê
không chỉ là một trong những loại bánh truyền thống của Việt Nam mà còn
hàm chứa trong đó triết lý âm dương của cả dân tộc. Từ một đặc sản của
làng Đình Bảng – Bắc Ninh, bánh phu thê đã nhanh chóng nổi tiếng và trở thành một loại bánh được ưa chuộng trên khắp đất Việt.
Đọc thêm:
Hướng dẫn làm bánh phu thê hay còn gọi là bánh xu xê, xu xuê, su sê
Sơ lược Bánh Phu Thê hay còn gọi là bánh Xu Xê, Bánh SU SÊ, bánh Xu Xuê
Tục truyền, tên gọi bánh phu thê
là do sự tích vua Lý Anh Tông đi đánh trận, người vợ ở nhà thương chồng
vất vả đã tự tay vào bếp làm bánh gửi ra cho chồng. Vua ăn thấy ngon,
nghĩ đến tình vợ chồng đã đặt tên bánh là bánh phu thê. Cũng vì
tên gọi ấy mà bánh phu thê (hay cũng còn gọi là xu xê) luôn được buộc
thành cặp, biểu trưng cho sự gắn bó son sắt của tình chồng vợ.
Có người lại truyền nhau tên gọi bánh “phu thê” gắn liền với câu
chuyện kể về vợ chồng người lái buôn thuở xưa. Chuyện kể rằng, trước lúc
người chồng lên đường đi buôn ở phương xa, người vợ làm bánh tặng chồng
và thề rằng cho dù xa nhau nhưng lòng nàng vẫn luôn ngọt ngào, đậm đà
như bánh. Chồng cảm động đặt tên cho bánh là bánh phu thê.
Chẳng ngờ đến phương xa, người chồng bị say đắm bởi sắc đẹp của các cô
gái lạ và không muốn quay về. Người vợ ở nhà biết tin liền làm bánh gửi
cho chồng kèm theo lời nhắn:
“Từ ngày chàng bước xuống ghe
Sóng bao nhiêu đợt bánh rầu bấy nhiêu”.
Nhận được bánh và lời nhắn của vợ, người chồng hối hận liền tức tốc
quay về và không còn nghĩ đến chuyện thay lòng đổi dạ nữa. Từ đó, người
ta truyền nhau rằng bánh phu thê tượng trưng cho sự thủy chung của vợ
chồng, và thường hay có mặt trong tiệc cưới như một lời nhắn nhủ đến các
đôi vợ chồng trẻ.
Lại có câu chuyện khác thế này, những em nhỏ của làng Đình Bảng kể
lại rằng: Theo truyền thuyết, thời Lý vào những ngày hội hè hay ngày
Tết, người dân làng Đình Bảng thường dùng sản vật mình đã cấy trồng ra
làm bánh Su Sê, thành tâm dâng cúng tổ tiên, rồi cùng hưởng lộc. Một lần
hội làng, Lý Thánh Tông cùng vợ là Nguyên phi Ỷ Lan về quê lễ Lý Thái
Tổ và Lý Thái Tông ở Đền Đô. Tại đây, dân làng đã dâng Đức vua và Nguyên
Phi đặc sản của quê hương là bánh Su Sê. Đức vua và Nguyên Phi thưởng
thức món bánh này và khen ngon. Thấu suốt sự hàm chứa nhiều ý nghĩa nhân
văn của loại bánh ngon, nhà vua đã truyền rằng bánh nên là một lễ vật
trong ngày vui kết thành phu thê. Từ đó, bánh được gọi là bánh Phu Thê.
Bánh phu thê truyền thống được gói bằng hai thứ lá,
bên trong là lớp lá dong hoặc lá chuối, bên ngoài là lớp lá dừa. Loại
gạo để làm bánh phu thê phải là loại gạo nếp cái hoa vàng thơm ngon. Gạo
đem vo sạch, để ráo nước và dùng cối giã chứ không được xay bằng máy.
Tiếp đó, lọc lấy tinh bột gạo, bởi vậy, một cân gạo nếp cái hoa vàng
thường chỉ lấy được 4 lạng tinh bột thôi. Bột lọc đó lại đem xay cho
thật nhuyễn rồi phơi hoặc sấy khô để qua 15 ngày mới đem ra làm bánh,
nếu làm ngay thì bánh sẽ nát. Để có được lớp vỏ bánh phu thê vàng ươm,
người làm bánh thường đem hoa dành dành phơi khô, khi nào làm bánh thì
ngâm vào nước sôi để chiết lấy nước màu vàng.
Bên trong chiếc bánh trong suốt ấy còn được rắc lẫn những sợi đu đủ
nạo nhỏ nữa thế nên khi ăn, ta sẽ có cảm giác giòn giòn, sần sật xen lẫn
trong cái dẻo dai của vỏ bánh. Nhân bánh là đỗ xanh được ngâm kĩ, đãi
sạch vỏ, đem hấp chín, nghiền mịn thắng với đường và trộn lẫn vào sợi
dừa đã được nạo nhỏ. Khi ăn, bánh thường được cắt làm bốn nên trong nhân
bánh thường đặt bốn hạt sen ở bốn góc.
Người ta cho rằng cách làm chiếc bánh phu thê cầu kì
như vậy là để chứa đựng nhiều ý nghĩa ẩn bên trong. Cái cách dàn mỏng
bột lên khuôn, đặt nhân vào một đầu rồi đắp phần bột còn lại lên nhân
dường như thể hiện sự ôm ấp, che chở của tình nghhĩa phu thê. Không
những vậy, bánh phu thê còn bao hàm trong nó triết lí
ngũ hành một cách tinh tế qua năm màu của bánh: màu trắng của bột lọc và
cơm dừa, màu vàng của dành dành dùng làm màu cho vỏ bánh và nhân đỗ
xanh, màu đen của hạt vừng, màu xanh của lá và màu đỏ của lạt buộc. Đó
là sự hòa hợp của con người với trời đất, là sự hòa hợp giữa người với
người và giữa vợ với chồng. Có lẽ bởi ý nghĩa âm dương giao hòa, và mùi
vị thơm ngon, ngọt ngào của chiếc bánh mà công đoạn làm ra nó cũng không
hề đơn giản tẹo nào. Bánh phải được luộc bằng bếp củi, đun vừa lửa, mới
giữ được vị ngon và mùi thơm của bánh. Thưởng thức bánh phu thê với nếp
dẻo, đu đủ giòn, vị ngầy ngậy của đỗ xanh, vị béo của dừa, vị thơm của
hạt sen, vị ngọt thanh của đường và hương thơm của dầu chuối… tất cả hòa
quyện với nhau tạo nên hương vị riêng của bánh phu thê, hương vị ngọt
ngào của tình nghĩa vợ chồng.
Bánh Xu Xê là một đặc sản được nhiều người ưa chuộng. Bánh phu thê
có ở rất nhiều nơi, nhưng nổi bật nhất là làng Đình Bảng, nơi giữ được
truyền thống lâu đời làm bánh phu thê. Bánh phu thê Đình Bảng chân chất
mộc mạc, ngon mà mát, đẹp mà không đắt… Theo những bô lão trong làng
Đình Bảng, ngày xưa, chỉ có các gia đình quý tộc, chức sắc mới có tiền
mua bánh phu thê. Bánh phu thê ngày đó chỉ được dùng trong những dịp lễ
quan trọng hoặc dùng để làm quà biếu sang trọng cho khách phương xa.
Ngày nay, nghề làm bánh phu thê đã phổ biến hơn, và với mức sống được
nâng cao, hầu như gia đình nào cũng dễ dàng chọn cho mình những cặp bánh
phu thê thơm ngon, đẹp mắt.
Ngày nay, nhiều đám hỏi và lễ cưới vẫn chọn bánh phu thê
để làm lễ vật vì ý nghĩa âm dương giao hòa tinh tế của nó. Thay vì dùng
lá dừa làm hộp bánh như trước kia, người ta thay bằng giấy bóng kính,
buộc bánh bằng ruy-băng màu. Ở nhiều nơi, người ta không còn thấy màu
vàng của vỏ bánh phu thê nữa, mà thay vào đấy là màu
đỏ, màu trắng nhưng vẫn vuông tròn, mềm dẻo, thơm ngon… và vẫn chứa đựng
trong đó ý niệm thủy chung nhắn gửi tới những đôi uyên ương vào ngày
cưới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét