Người ta nghĩ và tin tưởng rằng, được ăn bánh này thì gia đình sẽ hạnh phúc hơn…
Bà Lụa chậm rãi lau kỹ từng vạt lá chuối, dưới ánh nắng sớm. Vạt lá
heo héo, thơm thơm, và ánh lên những tia sáng bàng bạc. Công việc của bà
được lặp đi lặp lại, ngày này qua ngày khác, từ lau lá, chẻ lạt đến vo
gạo, đãi đỗ, xay bột rồi làm bánh. Mỗi ngày, bà chỉ ngưng việc khi mẻ bánh phu thê
cuối cùng được vớt ra với mùi thơm dịu ngọt lan khắp sân. Xếp những
chiếc bánh đã được ép cho ráo nước, sau đó bà mới tỉ mẩn buộc lạt đều
từng cặp bánh một để bán cho khách. Một cặp, hai cặp, ba cặp…, những cặp
bánh Phu Thê được bà Lụa trau chuốt rồi nhẹ
nhàng xếp vào chiếc rổ và được phủ bằng tấm khăn trắng. Không phải bày
bán, chào mời như ở chợ, mà bản thân tiếng tăm về nghề làm bánh Phu Thê truyền thống của gia đình bà đã tự là cách thu hút du khách tìm tới đây mua.
Đã thành thói quen, dù ruộng nhiều hay ít, từ xưa người Đình Bảng
(Từ Sơn, Bắc Ninh) vẫn có ý thức dành riêng một khoảnh để cấy lúa nếp
cái hoa vàng. Thứ nếp này được xay lọc kỹ thành loại bột trắng mịn màng,
và cứ 10 kg nếp thì chỉ lọc được 4 kg bột làm bánh. Bánh Phu Thê là sản
phẩm của sự pha chế tổng hợp, nguyên liệu được làm từ những sản vật của
đồng quê: Vỏ bánh chế từ gạo nếp cái hoa vàng, xay mịn, lọc lấy tinh
bột, nhào đu đủ xanh nạo nhỏ, ngâm nước quả dành dành để tạo màu vàng.
Nhân bánh được làm bằng đậu xanh đồ chín, xào nhuyễn với đường kính, mứt
sen, mứt bí, cùi dừa nạo nhỏ… Từng ấy thứ tổng hợp lại với nhau, bổ
sung lẫn nhau để cho ta chất béo, chất bột, chất khoáng. Nó không những
có giá trị dinh dưỡng cao mà còn tạo nên một hương vị vừa độc đáo, vừa
ngon miệng, vừa nồng nàn khó quên. Béo, ngọt, mịn màng trong suốt như hổ
phách và tác động tới mọi giác quan: mũi ngửi thấy hương thơm nhẹ nhàng
nhưng rất sâu của lúa nếp và đậu xanh, mứt sen; mắt nhìn thấy nền lụa
trắng của vỏ bánh với thấp thoáng những “vân mây”, lưỡi thưởng thức vị
ngon của đồ ăn, tai nghe tiếng lá bóc sột soạt. Đấy cùng chính là những
yếu tố để làm nên sự khác biệt mà chỉ bánh Phu Thê Đình Bảng mới có.
Nói đến sự khác biệt, người ta nghĩ ngay đến bánh Phu Thê ở Huế. Dù cả hai đều là sản phẩm của đất cố đô, đều mang nhưng nét tinh túy của quê hương các bậc tiên vương, nhưng bánh Phu Thê của Huế khác với Phu Thê của Đình Bảng là ở cách làm và nguyên liệu làm bằng bột sắn lọc. Cái giống nhau đều là dùng nhân đậu xanh và dừa nạo hấp chín. Người Đình Bảng
thực sự khó tính. Họ tuân thủ những quy định nghiêm ngặt sao cho sản
phẩm mình làm ra phải là nhất, bánh phải ngon hơn, thơm hơn, và quyến rũ
hơn. Tuy nhiên, họ lại không cầu kỳ trong cách gọi mà ngay cả tên bánh
Phu Thê cùng phải có mấy cách gọi khác nhau. Theo như các cụ già trong
làng, thậm chí là các gia đình có 3, 4 đời làm bánh như nhà bà Lụa, nhà
Đào Hoa, nhà Lợi Quyền thì từ “bánh Phu Thê” nó xuất phát từ tên gọi Su
Sê. Sự thay đổi này được lý giải giống như là sự phát triển của cơ chế
thị trường, nhằm đánh mạnh vào tình cảm con người. Chí ít thì người ta
nghĩ và tin tưởng rằng, được ăn bánh này thì gia đình sẽ hạnh phúc hơn.
Đó cũng chính là sự phát triển của tâm lý xã hội thời hiện đại. Ngay cả
trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản KHXH & NV cũng giải
thích, Su Sê là thứ bánh làm bằng bột nếp lọc và được pha màu. Còn trong
cuốn Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 2002 của Nhà xuất bản Thanh Niên
thì lại cho rằng bánh Phu Thê “thường được đọc trại là bánh Su Sê”. Nhưng đối với người dân Đình Bảng,
dù gọi là Su Sê, Phu Thê thậm chí là Xu Xuê thì đây vẫn là loại bánh
hàm chứa nhiều ý nghĩa nhân văn nhất mà họ gìn giữ được. Theo truyền
thuyết, thời Lý vào những ngày hội hè hay ngày Tết, dân làng Đình Bảng
thường dùng sản vật mình đã cấy trồng ra làm bánh Su Sê, thành tâm dâng
cúng tổ tiên, rồi cùng hưởng lộc. Một lần hội làng, Lý Thánh Tông cùng
vợ là Nguyên phi Ỷ Lan về quê lễ Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông ở Đền Đô.
Tại đây, dân làng đã dâng Đức vua và Nguyên Phi đặc sản của quê hương là
bánh Su Sê. Đức vua và Nguyên Phi thưởng thức món bánh này và khen
ngon. Người cho rằng, cuộc đời con người có được hạnh phúc là niềm vui
lớn của mỗi lứa đôi, và truyền từ nay, ngày ăn hỏi, ngày cưới thành vợ
thành chồng nên có món bánh quý này cho mọi người cùng hưởng. Cũng từ đó
bánh Su Sê được gọi là bánh Phu Thê, buộc từng cặp bằng lạt điều và là
một trong những lễ vật không thể thiếu trong đám cưới hỏi, bởi nó như
một biểu tượng về lòng chung thủy, gắn bó sắt son của tình vợ chồng.
Tục lệ gói bánh Phu Thê cứ như vậy truyền
từ đời này sang đời khác. Bánh gói bằng lá chuối, lá dong, quý hơn thì
có lá dừa bọc ngoài thành hình vuông dẹt. Thoạt trông, việc luộc bánh có
vẻ đơn giản, nhưng đây lại chính là giai đoạn công phu thể hiện độ chín
của người làm bánh, nhiều người còn cho nó có tính quyết định đến thành
công của cả mẻ bánh. Vì vậy mà những nhà làm bánh ngon có tiếng thì
chắc chắn họ phải biết giữ lửa khi nấu. Khi nào cần lửa to, và cần lửa
trong bao lâu… Và tất cả cứ từ từ trở thành một nghệ thuật đa dạng trong
cách làm, nhưng lại cùng chung một tiêu chí ngon, thơm, dẻo. Bánh Phu Thê
ngon ăn xong, hương thơm còn phảng phất lẫn trong tình cảm của mỗi
người. Ngược lại, bánh không ngon là bánh nhão, hương không nồng. Điều
này lý giải tại sao với mỗi nghệ nhân khi làm bánh Phu Thê,
họ hầu như dồn hết tâm sức của mình vào đó. Ngoài tâm hồn tài hoa của
người thợ, nếu thiếu một tấm lòng chứa chất thương yêu thì khó có thể có
được cặp bánh Phu Thê hoàn mỹ. Đây cũng là trăn trở của hơn 400 gia đình còn đang giữ nghề làm bánh Phu Thê truyền thống để bán ra thị trường tại Đình Bảng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét